Ổ đĩa di dộng có dung lượng lớn ngày càng trở nên phổ biến hơn trong ngành công nghiệp máy tính với thực tế là nhu cầu sử dụng và lưu trữ dữ liệu ngày càng lớn hơn.
Với sự cạnh tranh từ các ổ đĩa flash USB (lên tới 16GB hoặc cao hơn), đĩa DVD có khả năng ghi lại (4.7/8.5GB), ổ USB dùng ngoài và các đĩa cứng FireWire (20GB và hơn nữa), chỉ có 2 dòng san phẩm đến từ Lomeea là đã bị loại khỏi cuộc cạnh tranh này bởi vì chúng không được nâng cấp trong thời gian dài:
■ Zip – đĩa linh hoạt (Flexible media), dung lượng 100MB. 250MB và 750MB.
■ REY – đĩa cứng (Rigid media), dung lượng 35GB và 70GB.
Những ổ đĩa mềm
Alan Shugart được cấp chứng chỉ phát minh ổ đĩa mềm trong năm 1967 trong khi làm việc cho IBM. Thực tế một trong những kỹ sư cao cấp của Shueart, David Noble đề xuất phương tiện linh hoạt (8″ đường kính) và vỏ bọc bảo vệ với lớp kết cấu. Shugart rời khỏi IBM năm 1969 và năm 1976 công ty của ông. Shugart Associates, giới thiệu ổ đĩa mềm nhỏ (minifloppy 5 1/4″). Nó, tất nhiên, cuối cùng trở thành tiêu chuẩn được sử dụng bởi những máy tính cá nhân, nhanh chóng thay thế các ổ đĩa 8″. Ông cũng tạo ra giao diện hệ thống kết hợp Shugart (SAS1: Shugart Associates System Interface), sau này được đặt lại tên giao diện hệ thống máy tính nhỏ (SCSI: small computer system interface) khi được chấp thuận như một tiêu chuẩn ANSI.
Sony giới thiệu các ổ đĩa mềm siêu nhỏ 3 1/2″ đầu tiên (microfloppy) và những đĩa năm 1981. Công ty đầu tiên lựa chọn ổ mềm 3 1/2″ cho sử dụng phổ biến là Hewlett-Packard năm 1984 với hệ thống HP-150 tương thích máy tính một phần của họ. Sự chấp thuận ổ đĩa 3 1/2″ trong máy tính mạnh mẽ khi IBM bắt đầu dùng ổ đĩa này năm 1986 trong một số hệ thống và cuối cùng chuyển hết toàn bộ dòng sản phẩm của họ sang các ổ đĩa 3 1/2″ năm 1987.
Năm 2002, nhiều công ty bắt đầu bán những hệ thống không có ổ đĩa mềm. Điều này bắt đầu với các máy tính xách tay, nơi các ổ đĩa mềm gắn trong đầu tiên bị loại bỏ và được thay thế bằng những ổ đĩa ngoài (thường là USB). Phần lớn những máy tính xách tay mới hơn không còn bao gồm ổ đĩa mềm trong hệ thống, chỉ cho những kiểu USB ngoài như một tùy chọn. Bắt đầu năm 2003, nhiều nhà sản xuất hệ thống máy để bàn cũng ngưng bao gồm ổ đĩa mềm trong các cấu hình hệ thống của họ. Một ổ đĩa mềm USB tùy chọn có thể được dùng như một ổ đĩa có thể khởi động được nếu BIOS cho phép, như với nhiều hệ thống gần đây.
Nhận xét rằng tất cả ổ đĩa mềm máy tính vẫn trên cơ sở trên (và hầu như tương thích với) những thiết kế Shugart đầu tiên, bao gồm những giao diện lệnh và điện. So sánh với những phần khác của máy tính, ổ đĩa mềm trải qua vài thay đổi vừa phải qua nhiều năm.
Như bạn thấy, những dung lượng đĩa khác nhau có thể được xác định bởi vài tham số, một số trong chúng dường như vẫn giữ nguyên hằng số trên tất cả những ổ đĩa. Những tham số khác, bất kể như thế nào, thay đổi từ ổ đĩa này đến ổ đĩa kia. Cho thí dụ, tất cả ổ đĩa dùng những sector vật lý 512-byte, cũng đúng cho các ổ cứng.
Mặc dù càng lúc càng hiếm hoi các ổ đĩa mềm vẫn giữ nguyên hữu dụng cho hồi phục dữ liệu hay những máy tính pháp y (computer forensics), nơi phục hồi dữ liệu lấy từ phương tiện cũ hơn thường là cần thiết. Dù không dùng các ổ đĩa mềm nhiều cho lưu trữ thông tin mới, tôi vẫn duy trì những hệ thống với các ổ đĩa 5 1/4″ và 3 1/2″ nên có thể đọc dữ liệu từ phương tiện cũ trong hồ sơ pháp y hay tình huống phục hồi dữ liệu.
Các ổ đĩa 3 1/2″ 1.44MB
Các ổ đĩa mặt độ cao 3 1/2″. 1.44MB (HD: high-density) đầu tiên xuất hiện từ IBM trong dòng sản phẩm PS/2 được giới thiệu năm 1987. Đa số các nhà kinh doanh máy tính khác ngay sau đó bắt đầu đưa những ổ đĩa này như một tùy chọn trong hệ thống của họ. Đối với các hệ thống bao gồm các ổ đĩa mềm, loại 1.44MB vẫn là phổ biến nhất.
Ổ đĩa ghi nhận 80 cylinder bao gồm hai rãnh ghi, mỗi rãnh 18 sector, dẫn đến một dung lượng được định dạng 1.44MB. Một số nhà sản xuất ổ đĩa dán nhãn những ổ đĩa này như 2.0MB, sự khác biệt giữa dung lượng không định dạng này và kết quả dung lượng có thể sử dụng được định dạng bị mất đi trong quá trình định dạng. Nhận xét là 1440KB của tổng dung lượng được định dạng không chiếm các vùng: hệ thống tệp tin FAT dành riêng cho quản lý tệp tin, để lại chỉ 1423.5KB vùng lưu trữ tệp tin thực sự.
Ổ đĩa quay tốc độ 300rpm và thực tế phải quay ở tốc độ đó để vận hành chính xác với những bộ điều khiển mật độ cao và thấp hiện hữu. Để dùng tốc độ dữ liệu 500KHz (Tối đa từ phần lớn bộ điều khiển ổ mềm mật độ cao và thấp tiêu chuẩn), những ổ đĩa này phải quay ở tốc độ tối đa 30rpm. Nếu ổ đĩa quay ở tốc độ 360rpm của ổ đĩa 5 1/4″, nó phải giảm số sector cho mỗi rãnh ghi xuống 15; mặt khác, bộ điều khiển không thể duy trì. Ngắn gọn, những ổ đĩa 1.44MB 3 1/2″ lưu trữ gấp 1.2 lần dữ liệu của những ổ đĩa 1.2MB 5 1/4″, những ổ đĩa 1.2MB quay chính xác nhanh hơn 1.2 lần những ổ đĩa 1.44MB. Những tốc độ dữ liệu được dùng bởi những ổ đĩa HD này thì giống nhau và tương thích với cùng bộ điều khiển. Thực tế, do những ổ đĩa HD 3 1/2″ này có thể chạy ở tốc độ dữ liệu 500KHz. một bộ điều khiển có thể hỗ trợ một ổ đĩa 5 1/4″ 1.2MB cũng có thể hỗ trợ ổ đĩa 1.44MB.
Những loại ổ đĩa mềm khác được dùng trong quá khứ bao gồm như sau:
■ 2.88MB 3 1/2″- Kích cỡ này được dùng trong một số kiểu IBM PS/2 và ThinkPad trong đầu những năm 1990.
■ 720KB 3 1/2″- Kích cỡ này được dùng bởi IBM và những hãng khác bắt đầu năm 1986 trước khi ổ đĩa 3 1/2″ 1.44MB được giới thiệu.
■ 1,2MB 5 1/4″-Nó được giới thiệu bởi IBM cho IBM AT năm 1984 và được dùng rộng rãi suốt thời gian còn lại của thập kỷ.
■ 360KB 5 1/4″- Một phiên bản được cải tiến của ổ đĩa mềm đầu tiên được dùng bởi máy tính IBM, nó được sử dụng suốt những năm 1980 trong các máy lớp XT và một số máy lớp AT.
7 Comments
Comments are closed.